Tìm kiếm

Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

TINH THẦN TỰ HỌC { Nghị luận xã hội ( Dàn ý - Bài mẫu ) } [ Ngữ Văn 9 ]



TINH THẦN TỰ HỌC  
Dàn ý:
I.MB :
- Trong nhà trường, ngoài việc tiếp thu kiến thức do các thầy cô truyền đạt, người học sinh cần có biện pháp mới có thể giỏi được.
- Một trong số những biện pháp có kết quả là phương pháp tự học.

II.TB :
1) GIẢI THÍCH :
-“Tự học” nghĩa là tự mình vạch ra kế hoạch, tự mình đặt ra biện pháp để giúp cho việc học tốt hơn.
-“Tự học” là phần làm việc ở nhà trước khi vào lớp tốt hơn.

2) CHỨNG MINH :
- Trong thực tế có biết bao gương tự học đã làm nên danh phận như: Mạc Đỉnh Chi tự học thi đỗ Trạng nguyên, Mã Lương tự học và vẽ như thật, Bác Hồ tự học và biết nhiều thứ tiếng.

3) PHÊ PHÁN :
- Những kẻ lười học, xem việc học là khổ sở, là bắt buộc nên chán học , lười hoc.

4) ĐÁNH GIÁ :
- Việc tự học ở nhà của người học sinh thường là soạn bài,làm bài, học bài, xem trước bài mới
- Người học lên kế hoạch cho mình, học vào lúc nào, học những gì? Cài gì trước, cái gì sau.
- Học sinh chuẩn bị bài trước khi vào lớp sẽ dễ hiểu hơn,sẽ trả lời được các câu hỏi của thầy cô đặt ra, đồng thời tạo ra hứng thú hơn trong việc học.
-“Tự học” là biện pháp giúp người học sinh tự tìm hiểu lấy kiến thức.
-“Tự học” là phương pháp mới giúp học sinh năng động hơn trong học tập.
- Đó còn là cơ sở thể hiện năng lực tư duy sáng tạo, biết sắp xếp công việc có khoa học.
- Người học sinh có biện pháp tự học là biết làm chủ lấy mình.

III.KB :
-Tinh thần tự học giúp con người nâng cao kiến thức, tự làm chủ lấy mình, tự đặt ra kế hoạch trong học tập.
- Tinh thần tự học rất cần cho tất cả mọi người.
- Mỗi học sinh cần đề ra cho mình biện pháp tự học.


Hệ thống luận điểm:

1. Thế nào là tự học ? - Tự học là không ai bắt buộc mà tự mình tìm tòi, học hỏi để hiểu biết thêm.

2.Lợi ích và hứng thú của công việc tự học ?
- Ở bất cứ bộ môn nào, lĩnh vực nào, kiến thức cũng liên tục thay đổi theo những kết quả nghiên cứu mới, đáp ứng yêu cầu do cuộc sống đặt ra. Trong khi đó, kiến thức ở trường học phải theo một khung chương trình nhất định, phù hợp với nhiều đối tượng, nên có khi không bắt kịp sự thay đổi đó, không đáp ứng đầy đủ yêu cầu của người học.
- Tự học giúp chúng ta bổ khuyết nền giáo dục ở trường, bắt kịp những kiến thức phong phú, mới mẻ, đáp ứng được nhu cầu của thời đại. Dù làm ngành gì, nghề gì cũng cần tự học thường xuyên. Nếu không chúng ta sẽ trở nên lạc hậu, cũ mòn.
- Đồng thời, bên cạnh việc đem lại những kiến thức, việc tự học cũng đem lại sự hứng thú, yêu thích lĩnh vực mà mình theo đuổi.

3. Tự học như thế nào để đạt hiệu quả ?
- Có hai kiểu tự học chính: tự học có người chỉ dẫn và tự học không có người chỉ dẫn. Tuy nhiên, dù học theo kiểu nào, hình thức tự học quan trọng nhất vẫn là đọc sách. (Gần đây có thêm hình thức truy cập thông tin trên mạng Internet, tuy nhiên đó cũng chỉ là nguồn thông tin khác nhau. Điều quan trọng nhất vẫn là cách đọc và xử lý thông tin của người tự học)
- Đọc sách là một việc quen thuộc của người tự học và mỗi người có thói quen đọc sách khác nhau. Tuy nhiên, cần phải rèn luyện những kỹ năng, thói quen tốt để việc đọc sách thực sự có hiệu quả .
- Quan sát, tìm hiểu trong thực tế cuộc sống ở lĩnh vực bộ môn mình nghiên cứu .
- Lịch sử khoa học-nghệ thuật thế giới đã có những tấm gương tự học vĩ đại: nhà bác học Ê-đi-xơn, tác giả của hàng ngàn phát minh khoa học có ích cho nhân lọai, đại văn hào Nga Mácxim Gorki, người coi cuộc sống là "những trường đại học của tôi"....Việt Nam cũng có những tấm gương như thế :Chủ tịch Hồ Chí Minh, người luôn tự học không ngừng ở nhiều lĩnh vực, biết nhiều ngọai ngữ; học giả Đào Duy Anh, tác giả nhiều từ điển, nhiều công trình nổi tiếng ....vv

Bài mẫu:

Bài 1:

    Người xưa đã nhắc nhở con cháu rằng: “Nếu còn trẻ  mà chẳng chịu học hành thì khôn lớn sẽ  chẳng làm được việc gì có ích” hoặc “Bất học bất tri lí”. Vậy thì chúng ta cần học thế nào cho đúng, cho có kết quả? Và qua kinh nghiệm bao đời được đúc kết, người ta đã nhận ra rằng chỉ có tự học mới là phương pháp hữu hiệu nhất. 
    Suốt lịch sử phát triển mấy nghìn năm, nhân loại  đã tích lũy được một kho tàng tri thức khổng lồ. Vì thế, muốn tiếp thu những tinh hoa ấy, con người chỉ có một cách duy nhất là phải học suốt đời. Bác Hồ đã từng dạy: “Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân”, Lê-nin đã khuyên: “Học, học nữa, học mãi”. Vì thế, tự học là xác định được ý thức, học có mục đích và học một cách tự giác. 
    Thực tế đã cho ta thấy những tấm gương tự học như Mạc Đĩnh Chi vì nhà nghèo, không có tiền mua dầu thắp sáng nên ông đã bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng thay đèn để học bài. Hay nhà toán học Lương Thế Vinh  từ một đứa trẻ chăn trâu vẫn luôn tu chí học hành, hoặc không ai xa là Bác Hồ từ một anh Ba phụ bếp, người thợ ảnh ở ngõ nhỏ đến người thợ quét tuyết trong công viên, Bác vẫn không ngừng tiếp thu và học tập để nâng cao hiểu biết về văn hóa, lịch sử nhân loại, rút ra những kinh nghiệm bổ ích và Người đã trở thành một danh nhân văn hóa thế giới… 
    Những minh chứng trên phải chăng đã quá sáng tỏ để nhận ra rằng, có tự học, chúng ta mới xác  định được năng lực của bản thân. Khổng Tử đã dạy: “Bể học không bờ”, vì thế ta không nên nản lòng khi thấy việc học của ta còn nông cạn, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm và ta cần phải cố gắng bồi đắp bằng ý chí và nghị lực của mình bởi việc tích lũy kiến thức của con người như “Kiến tha lâu đầy tổ”. 
    Càng học chúng ta mới nhận ra rằng có tự học, chúng ta mới tiến bộ nhanh và có những kết quả vững chắc. Tự học sẽ giúp chúng ta có thêm nghị lực, niềm tin trong cuộc sống. Ngạn ngữ Hi Lạp có câu: “Học vấn như những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngào”. Vì thế bước đường tự học bao giờ cũng sẽ bắt đầu với nhiều trở ngại, khó khăn dễ làm ta chùn bước nhưng nếu ta có ý chí, quyết tâm vươn lên trở ngại khó khăn thì những đắng cay sẽ cho ta những hoa quả ngọt ngào. Lúc bấy giờ, ta mới thấy được hết giá trị của học vấn. Như cô bé Trần Bình Gấm bán khoai đã đậu ba trường đại học, nhận học bổng “Học trò giỏi- hiếu thảo” của báo Tuổi trẻ bằng tinh thần tự học, bằng sự cần cù, siêng năng, vượt qua khó khăn, không ngừng nâng cao kiến thức của bản thân mình là một tấm gương cho bao bạn trẻ hôm nay. 
    Nhưng lại có một thành phần các bạn trẻ ngày nay được học ở trường dưới sự dìu dắt của thầy cô nhưng chỉ học chày, học vẹt, học dựa dẫm thì kết quả sẽ không có hoặc chỉ là những điểm ảo. Một khi các bạn ấy tự bơi vào biển rộng, họ sẽ chìm ngập vì không có phao, không có bàn tay của thầy. Phải chăng đó là điều các bạn muốn? Để tự tin hơn trong học tập cũng như cuộc sống sau này, mỗi người cần phải trang bị một khối lượng kiến thức cũng như một cách học phù hợp, phải xác định đúng mục đích và động cơ học tập; học để nắm vững những kiến thức cơ bản, học và làm bài đầy đủ để cũng cố kiến thức… tham khảo trong cuộc sống để mở rộng vốn hiểu biết… Học ở sách là một trong những phương pháp tự học tốt nhất nhưng việc học này cần phải được thực hiện thật nghiêm túc, tức là đọc có chọn lọc, suy nghĩ, có hệ thống chứ không phải là chép, học thuộc để đối phó… Vẫn còn rất nhiều phương pháp tự học, vì vậy, mỗi người cần phải tự chọn cho mình một cách học phù hợp và hiểu quả nhất. 
    Tự  học là phương pháp tốt nhất để tiếp thu, tích lũy những điều thú vị ở quanh ta. Mỗi người cần tập dần tính tự học để có kiến thức uyên bác làm giàu cho đất nước. Thế hệ trẻ ngày nay muốn chiếm lĩnh được đỉnh cao khoa học, làm chủ cuộc sống và tương lai thì phải xác định được phương pháp học tập đúng đắn nhất là tự học. 




Bài 2:

Ngày nay, khi khoa học kĩ thuật phát triển thì việc học tập cũng phát triển theo. Chính vì vậy giới học sinh chúng ta đã sáng tạo ra rất nhiều cách học nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho bản thân. Nhưng theo tôi: trong học tập, tự học là cách học tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong khi học. Và khi nói đến vấn đề này, tôi muốn mọi người hiểu được trước nhất là ý nghĩa của việc học rồi mới đến cách tự học. Vậy học là gì ?
Tự học là gì ? Học là quá trình con người tiếp thu những kiến thức, kĩ năng do người khác truyền lại và tự học là việc con người phát huy những kiến thức,kĩ năng đã được truyền lại bằng chính sức lực,khả năng của riêng mình. Thực tế ngày nay cho thấy các cách học của các bạn chưa mang lại hiệu quả cao.
Học sinh ngày nay đã quá phụ thuộc vào các bài giảng của thầy cô trên lớp, thầy cô dạy như thế nào thì lại hiểu và học như thế ấy dẫn đến quá trình thụ động, thiếu suy nghĩ và sáng tạo trong lúc học để đào sâu kho tàng kiến thức còn ẩn sâu các bài giảng của thầy cô.
Và cũng chính vì chỉ học cô đọng trong các bài giảng bốn mười lăm phút trên lớp của thầy cô mà dẫn đến tình trạng học sinh phải đi học thêm tràn lan. Mà khi đã học thêm tràn lan thì lại càng khiến mọi người không chịu tự học, càng thêm phụ thuộc vào việc học thêm. Thêm việc ngày nay khi việc học được nâng cao thì có quá nhiều sách tham khảo, văn mẫu, hướng dẫn...dẫn đến việc học sinh đâm lười suy nghĩ trong khi làm các bàitập.

Hậu quả của những việc trên rất nặng nề vì như vậy sẽ dễ dẫn đến hiện tượng "học vẹt": học thuộc bài nhưng không hiểu nội dung, vấn đền được nêu ra trong bài dẫn đến việc học xong là quên ngay, kiến thức không bền và sẽ không làm được các bài tập thực hành, chỉ học lí thuyết suông, kiến thức sẽ ngày càng rỗng, thành tích học tập sẽ càng sút kém khiến mọi người đâm nãn chí. Một khi kiến thức đã trang bị không chắc chắn thì kết quả sẽ không bao giờ cao.

Chính những thực tế được nêu trên lại càng khẳng định việc tự học cho bản thân là rất quan trọng. Nó chính là một chiếc chìa khóa đưa ta đến kho tàng tri thức, là điều kiện giúp ta thành công trong học tập. Nếu chúng ta biết tự học cho bản thân thì chúng ta chắc chắn sẽ thành công và nâng cao được tri thức của chính mình. Tự học giúp con người có được ý thức tốt nhất trong quá trình học: chủ động suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn đề từ đó tự học giúp ta tiếp thu được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, từ truyền hình ti vi,từ bạn bè hoặc từ những người xung quanh,những kinh nghiệm sống của nhân dân.
Tự học giúp ta có thể chủ động ghi nhớ các bài giảng trên lớp,tiết kiệm được thời gian, có thể tiếp thu một lượng kiến thức lớn mà vẫn hiểu và nắm chắc bài học. Và qua tự học, từ lí thuyết, chúng ta biết chủ động luyện tập thực hành,giúp ta có thể nhanh chóng hình thành kĩ năng,củng cố và nâng cao kiến thức đã học.Vì vậy,chủ động tự học sẽ giúp ta tìm ra được phương pháp học tốt nhất mang lại hiệu quả cao cho chính bản thân mình.
Ví như các vị danh nhân nổi tiếng trên thế giới thành đạt trong sự nghiệp học tập,có được kiến thức uyên thâm cũng là nhờ biết chủ động tự học mà dẫn đến thành công như Thần đồng Lương Thế Vinh khi xưa,nhờ cố gắng chủ động tự học cộng với phẩm chất thông minh trời ban mà sau đỗ trạng,chế ra bảng cửu chương còn lưu truyền mãi đến ngày nay...hayTrạng nguyên lừng danh Mạc Đinh Chi, lúc nhỏ nhờ biết chủ động tự học, sáng tạo cách học bắt đom đóm bỏ vỏ trứng mà sau đỗ trạng, đi xứ làm rạng danh nước nhà, được phong "Lưỡng Quốc Trạng Nguyên" vang danh hai nước, ghi vào sử sách nhân loại về những tấm gương tự học sáng ngời.
Tuy phương pháp tự học đã có từ lâu đời những đó là một phương pháp rất có hiệu quả cho việc học tập.Tôi khẳng định rằng tự học là chìa khóa,là con đường đưa ta đến thành công...Vị lãnh tụ vĩ đại ngày trước của dân tộc Việt Nam ta cũng đã từng nỗ lực tự học, Bác đã tự say mê tìm tòi học hỏi và đã thành công,thông thuộc được nhiều ngôn ngữ của các nước trên thế giới và tìm ra được con đường cứu nước,đưa cả dân tộc Việt Nam ra khỏi ách đô hộ của giặc Tây tàn ác, hướng đến nền độc lập,dân chủ,tự do,hạnh phúc ngày nay.

Chính vì vậy,tự học là cách tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong học tập,mang lại một kết quả học tập cao nhất có thể.Nếu chúng ta biết nỗ lực tự học,chúng ta sẽ thành công,sẽ mở được một tương lai rộng mở cho chính mình.Nếu chúng ta học tập thành công,chúng ta sẽ trở thành những người có ích cho xã hội,cho đất nước, đưa đất nước ngày càng đi lên, phát triển đến một tầm cao mới. 

                                                                                                                          [ Sưu tầm ]

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

Kết hôn sớm và tảo hôn ở một số tỉnh, thành phố các khuyến nghị trong tương lai



1. Kết hôn sớm và tảo hôn
Số liệu từ Tổng điều tra 2009 cho thấy dân số Việt Nam đang ngày càng kết hôn muộn hơn tuy nhiên đối với một số dân tộc ít người, tảo hôn/kết hôn sớm vẫn còn phổ biến.
Qua ba cuộc tổng điều tra 1979, 1999, 2009 cho thấy nữ thường kết hôn sớm hơn nam, sau tuổi 50 thì hầu hết dân số đã từng kết hôn và ở hầu hết các độ tuổi, tỷ lệ ly hôn/ly thân và góa của nữ đều cao hơn nam giới. Người dân có xu hướng kết hôn muộn hơn và tuổi kết hôn trung bình lần đầu (SMAM) ngày càng tăng, năm 2009 của nam giới là 26,2 và nữ là 22,8; trước đó năm 2005 SMAM của nam là 26,8 và nữ  là 23,5; tương ứng năm 2000 là 25,7 và 22,9. Tỷ lệ nữ góa chồng cũng tăng lên nhanh theo độ tuổi và thời gian, năm 2009 hơn 50% phụ nữ trên 60 tuổi phải sống ngoài hôn nhân, trong khi nam giới hiện tượng này chỉ xảy ra ở độ tuổi trên 85.
Bên cạnh xu hướng biến đổi của cơ cấu hôn nhân thì tình trạng tảo hôn hay kết hôn sớm vẫn khá phổ biến ở Việt Nam. Dựa trên Luật hôn nhân và gia đình có thể coi kết hôn sớm hay tảo hôn là nam kết hôn trước 20 tuổi và nữ trước 18 tuổi. Xét theo vùng thì các tỉnh phía Tây Bắc có tỷ lệ tảo hôn cao hơn hẳn các vùng khác, một số tỉnh ở Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long cũng có tỷ lệ kết hôn trong nhóm tuổi từ 15-19 khá cao (trên 10%). Một số tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao nhất cả nước cũng nằm trong những vùng này như là Lai Châu, có khoảng gần 1/5 dân số nam và 1/3 dân số nữ 15 – 19 tuổi đã từng kết hôn, tỉnh Điện Biên lần lượt là 14,4%, 27,6% và 17,5%. Cả nước có 9 tỉnh có trên 5% dân số nam 15-19 tuổi và 14 tỉnh có trên 5% dân số nữ 15-17 tuổi đã từng kết hôn. Tình trạng kết hôn của riêng nữ cũng tương tự, 23/63 tỉnh có trên 10% dân số nữ 15-19 tuổi đang hoặc đã từng có chồng

Bảng 6. Một số tỉnh có tỷ lệ kết hôn dưới 20 tuổi và dưới 18 tuổi cao

nhất cả nước năm 2009

TT

Tỉnh/thành phố

Nam 15-19

Nữ 15-19

Nữ 15-17



Cả nước

2,19

8,51

3,12
1
Hà Giang
17,25
25,52
14,31
2
Cao Bằng
10,70
16,73
8,64
3
Bắc Cạn
5,49
13,08
5,86
4
Lào Cai
11,37
23,16
11,83
5
Điện Biên
14,40
27,60
17,53
6
Lai Châu
18,65
33,83
21,20
7
Sơn La
14,03
29,08
17,14
8
Yên Bái
5,16
16,11
6,15
9
Kon Tum
4,69
15,75
7,85
10
Gia Lai
5,46
17,26
7,83























2. Một số lý do kết hôn sớm/tảo hôn
Phân tích số liệu từ Tổng điều tra năm 2009 có thể lý giải một số nguyên nhân cho vấn đề tảo hôn như sau:
So với Trung du và miền núi phía Bắc thì người 15-19 tuổi ở 5 vùng còn lại nhất là Đồng bằng Sông Hồng, Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung có xác xuất đã từng kết hôn thấp hơn, tuy nhiên phụ nữ ở tuổi này lại không có sự khác biệt giữa sống ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc với ở Tây Nguyên hay ở Đồng bằng sông Hồng. Tình trạng nhập cư tương ứng với xác suất đã kết hôn cao hơn cho nhóm nữ (phụ nữ trẻ đã di cư vì kết hôn), nhưng lại không có ý nghĩa thống kê đối với nam. Người dân tộc thiểu số có khả năng tảo hôn hay kết hôn sớm cao hơn người Kinh và sự tác động của yếu tố văn hóa dân tộc đến nam giới cao hơn nữ giới.
Yếu tố khác tác động đến việc kết hôn sớm là trình độ học vấn, nhất là đối với nữ, học vấn càng cao thì xác suất kết hôn sớm càng thấp và ngược lại, với nam giới thì yếu tố này chưa có cơ sở tin cậy
Không có việc làm cũng là yếu tố góp phần làm tỷ lệ kết hôn sớm tăng, người có việc làm thì khả năng kết hôn sớm cao hơn người không làm việc, khác biệt này ở nam giới lớn hơn nữ giới. Đối với đồng bào dân tộc miền núi thì kết hôn sớm do nhu cầu về lao động là động cơ quan trọng. Kết quả điều tra “Một số đặc điểm về hôn nhân và gia đình của dân tộc H’Mông và Dao tại Lai Châu và Cao Bằng “ do Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện năm 2004 cho thấy lý do này chiếm tới 54%, báo cáo chỉ ra rằng “nguyên nhân hàng đầu của hiện tưởng tảo hôn và trong các trường hợp kết hôn sớm tuổi cô dâu bao giờ cũng lớn tuổi của chú rể. Điều này phản ánh rõ đặc trưng về động cơ cần thêm lao động ở gia đình nhà trai và xuất phát từ thực tế đời sống còn nhiều khó khăn của bà con các dân tộc thiểu số”
Như vậy có thể thấy, việc kết hôn sớm có liên quan đến các yếu tố về bỏ học sớm, đi làm sớm, nhóm dân tộc ít người và những yếu tố này rơi vào nữ nhiều hơn.

3. Các gợi ý và khuyến nghị
-                     Việc kết hôn sớm sẽ làm mất đi cơ hội về học vấn, việc làm tốt, cơ hội cải thiện điều kiện sống và sức khỏe của người trẻ tuổi, vì vậy việc chống tảo hôn, kết hôn sớm là cần thiết. Đối tượng cần tập trung bảo vệ là phụ nữ nông thôn ở Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long, cả nam và nữ ở nông thôn vùng núi phía Bắc, đặc biệt là người dân tộc ít người, trình độ học vấn thấp
-                     Nhà nước cần tiếp tục thực hiện chính sách tuyên truyền vận động và áp dụng những biện pháp pháp lý hiệu quả hơn nhằm giảm bớt tình trạng tảo hôn và kết hôn sớm, ưu tiên những vùng có tỷ lệ tảo hôn cao.
-                     Vùng đồng bào các dân tộc ít người cần tiếp tục được đầu tư hơn nữa về giáo dục nhằm nâng cao dân trí, biến đổi nhận thức để đồng bào, đặc biệt là thế hệ trẻ có nhiều hơn sự lựa chọn trong vấn đề hôn nhân một cách đúng đắn, khắc phục những hạn chế về bởi yếu tố phong tục của dân tộc mình.
-                     Do đối tượng tảo hôn tập trung chủ yếu ở những vùng có kinh tế khó khăn và đồng bào dân tộc ít người sinh sống nên chính sách xóa đói, giảm nghèo nâng cao đời sống cho những vùng này là rất cần thiết.

-                     Cần có các nghiên cứu phân tích sâu yếu tố dẫn đến tình trạng tảo hôn/kết hôn sớm, đưa ra các giải pháp để bảo vệ, phát triển trẻ em gái  ở các vùng nghèo và ở nhóm dân tộc ít người.

Bảng 1. Tỷ lệ kết hôn dưới 20 và dưới 18 của các tỉnh/ thành phố, Việt Nam, 2009

Tỉnh/thànhphố

Nam         15-19

Nữ           15-19

Nữ        15-17

Tỉnh/thànhphố

Nam         15-19

Nữ           15-19

Nữ        15-17
Hà Nội
0,65
4,83
1,20
Quảng Nam
1,33
4,37
1,74
Hà Giang
17,25
25,52
14,31
Quảng Ngãi
1,50
5,80
2,25
Cao Bằng
10,70
16,73
8,64
Bình Định
0,60
5,13
1,26
Bắc Kạn
5,49
13,08
5,86
Phú Yên
1,18
7,07
2,27
Tuyên Quang
3,28
14,08
5,07
Khánh Hoà
1,14
6,06
2,12
Lào Cai
11,37
23,16
11,83
Ninh Thuận
1,74
8,71
3,56
Điện Biên
14,40
27,60
17,53
Bình Thuận
1,30
7,88
2,57
Lai Châu
18,65
33,83
21,20
Kon Tum
4,69
15,75
7,85
Sơn La
14,03
29,08
17,14
Gia Lai
5,46
17,26
7,83
Yên Bái
5,16
16,11
6,15
Đắc Lắc
2,32
9,02
3,53
Hoà Bình
1,83
10,61
2,98
Đắc Nông
3,38
14,07
5,25
Thái Nguyên
0,85
8,53
2,47
Lâm Đồng
1,86
9,36
3,31
Lạng Sơn
3,47
9,58
3,08
Bình Phước
2,29
12,47
4,69
Quảng Ninh
1,17
7,29
1,55
Tây Ninh
2,63
12,92
5,23
Bắc Giang
0,97
8,49
1,72
Bình Dương
2,53
8,90
3,50
Phú Thọ
0,74
7,15
1,60
Đồng Nai
1,22
5,23
1,66
Vĩnh Phúc
0,69
9,11
2,00
Bà Rịa- Vũng Tàu
1,06
5,92
1,96
Bắc Ninh
0,71
7,57
1,25
TPHCM
1,38
5,29
1,96
Hải Dương
0,61
6,00
1,06
Long An
2,18
10,38
3,69
Hải Phòng
0,87
6,02
1,52
Tiền Giang
1,94
9,68
2,52
Hưng Yên
0,97
6,32
1,44
Bến Tre
1,38
8,70
2,40
Thái Bình
0,37
5,04
1,06
Trà Vinh
2,19
10,54
4,29
Hà Nam
0,75
5,40
0,95
Vĩnh Long
1,43
8,03
2,56
Nam Định
0,44
7,58
1,30
Đồng Tháp
2,41
11,04
3,77
Ninh Bình
0,33
4,96
0,76
An Giang
3,40
13,85
5,56
Thanh Hoá
1,15
5,61
1,62
Kiên Giang
2,46
11,12
4,36
Nghệ An
1,50
5,40
2,09
Cần Thơ
2,19
9,85
3,69
Hà Tĩnh
0,21
2,51
0,43
Hậu Giang
2,54
12,42
4,27
Quảng Bình
0,65
4,13
1,25
Sóc Trăng
2,37
10,09
3,76
Quảng Trị
1,37
5,46
1,80
Bạc Liêu
1,70
8,85
2,60
Thừa Thiên Huế
0,67
3,09
1,04
Cà Mau
2,83
11,46
4,03
Đà Nẵng
0,39
2,57
0,86
Cả Nước
2,19
8,51
3,12

 
Bảng 2. Tỷ lệ kết hôn theo nhóm tuổi, giới tính và sáu vùng địa lý ở Việt Nam, 2009


Trung du và MN Phía Bắc

ĐB Sông Hồng

Bắc Trung Bộ và DH Miền Trung

Tây Nguyên

Đông Nam Bộ

ĐB Sông Cửu Long

Chung

Nam
15-19
6,37
0,65
1,08
3,23
1,59
2,29
2,16
20-24
39,88
19,79
18,73
32,57
18,76
26,31
24,05
25-29
76,63
65,46
58,81
70,58
54,07
63,39
63,24
30-34
92,48
89,92
86,28
89,71
79,49
84,51
86,38
35-39
95,69
95,00
93,38
94,61
86,61
90,82
92,30
40-44
96,86
97,05
95,90
95,55
89,51
93,41
94,62
45-49
97,22
97,46
96,68
96,53
91,05
94,45
95,65
50-54
96,83
97,36
96,68
96,35
91,97
94,46
95,75
55-59
95,78
96,94
96,02
95,20
92,31
93,80
95,21
60-64
93,58
95,68
94,53
93,46
90,82
92,21
93,83
65-69
90,12
93,05
91,87
89,52
87,96
88,88
90,88
70-74
84,79
88,65
87,35
85,27
82,63
83,79
86,19
75+
70,87
72,48
72,62
74,35
71,64
69,49
71,74

Nữ
15-19
15,67
5,89
5,09
11,81
6,66
10,36
8,34
20-24
64,52
48,32
45,03
60,34
34,97
51,10
48,00
25-29
87,04
83,44
80,87
85,71
68,04
78,11
79,23
30-34
91,30
90,56
89,54
91,62
81,09
86,80
87,93
35-39
91,24
90,28
89,11
90,93
82,43
87,91
88,28
40-44
89,11
88,56
86,16
87,98
80,65
86,41
86,28
45-49
85,73
85,14
82,78
84,14
77,54
83,18
83,09
50-54
80,61
81,01
78,45
78,63
71,98
78,62
78,43
55-59
73,92
75,63
72,19
70,98
63,86
71,08
71,79
60-64
64,25
67,93
63,01
60,60
56,87
60,22
63,07
65-69
56,35
59,67
54,00
51,33
47,08
50,01
53,88
70-74
46,57
50,49
45,67
41,23
38,69
41,35
45,19
75+
25,88
26,78
25,68
23,20
22,83
24,34
25,44

 
Bảng 3. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu (SMAM), 2000-2010

Năm

Nam

Nữ

Chênh lệch SMAM (Nam - Nữ)
2000
25,7
22,9
2,8
2001
25,7
22,8
2,9
2002
26
22,8
3,2
2003
26,2
23,1
3,1
2004
26,7
23,4
3,3
2005
26,8
23,5
3,3
2006
26,6
23,2
3,4
2007
26,6
23,3
3,3
2008
26,6
23,1
3,4
2009
26,2
22,8
3,4
2010
26,2
22,7
3,5
 

Bảng 4. Tỷ lệ dân số đang kết hôn theo nhóm tuổi, giới tính và khu vực TT/NT, 2009

Nhóm tuổi

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Thành thị

Nông thôn

Thành thị

Nông thôn
15-19
1,09
2,55
4,81
9,72
2,16
8,34
20-24
14,94
28,11
32,89
55,79
24,05
48
25-29
53,2
67,81
71,41
83,24
63,24
79,23
30-34
80,58
88,95
83,92
89,83
86,38
87,93
35-39
88,04
94,2
84,78
89,91
92,3
88,28
40-44
91,37
96
83,08
87,7
94,62
86,28
45-49
93,37
96,7
80,93
84,09
95,65
83,09
50-54
94,28
96,45
76,46
79,36
95,75
78,43
55-59
94,08
95,72
69,93
72,65
95,21
71,79
60-64
93,35
94,04
63,19
63,02
93,83
63,07
65-69
90,75
90,93
53,79
53,92
90,88
53,88
70-74
86,28
86,16
43,28
45,89
86,19
45,19
75+
73,3
71,19
24,02
25,9
71,74
25,44