Tìm kiếm

Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013

Bài 2 HẠT NHÂN NGUYÊN TỬ - NGUYÊN TỐ HÓA HỌC – ĐỒNG VỊ [Hóa 10]

I. Hạt nhân nguyên tử
1. Điện tích hạt nhân
a) Proton mang điện tích là 1+, nếu hạt nhân có Z proton thì điện tích hạt nhân bằng Z+ và số đơn vị điện tích hạt nhân bằng Z.
b) Nguyên tử trung hòa về điện nên số proton trong hạt nhân bằng số electron của nguyên tử. Vậy trong nguyên tử :
Số đơn vị điện tích hạt nhân Z = số proton = số electron
Ví dụ : Số đơn vị điện tích hạt nhân của nguyên tử oxi là 8, vậy nguyên tử oxi có 8 proton và 8 electtron.

2. Số khốia) Số khối (kí hiệu là A) là tổng số hạt proton (kí hiệu là Z) và tổng số hạt nơtron (kí hiệu là N) của hạt nhân đó :
A = Z + N
Ví dụ: Hạt nhân nguyên tử oxi có 8 proton và 8 nơtron, vậy số khối của hạt nhân nguyên tử oxi là :
A = 8 + 8 = 16
b) Số đơn vị điện tích hạt nhân Z và số khối A đặc trưng cho hạt nhân và cũng đặc trưng cho nguyên tử, vì khi biết Z và A của một nguyên tử sẽ biết được số proton, số electron và cả số nơtron trong nguyên tử đó (N = A – Z).
Ví dụ : Nguyên tử Na có A = 23 và Z = 11, suy ra nguyên tử Na có 11 proton, 11 electron và 12 nơtron.

II. Nguyên tố hóa học
1. Định nghĩa
Nguyên tố hóa học là những nguyên tử có cùng điện tích hạt nhân.
Tất cả các nguyên tử có cùng số đơn vị điện tích hạt nhân là 17 đều thuộc nguyên tố clo. Chúng đều có 17 proton và 17 electron.
Cho đến nay người ta đã biết 92 nguyên tố hóa học có trong tự nhiên và khoảng trên 20 nguyên tố nhân tạo được tổng hợp trong các phòng thí nghiệm hạt nhân (tổng số khoảng trên 112 nguyên tố).

2. Số hiệu nguyên tửSố đơn vị điện tích hạt nhân nguyên tử của một nguyên tố hóa học được gọi là số hiệu nguyên tử của nguyên tố đó, kí hiệu là Z.

3. Kí hiệu nguyên tửSố đơn vị điện tích hạt nhân và số khối được coi là những đặc trưng cơ bản của nguyên tử. Người ta kí hiệu nguyên tử như sau:

X : kí hiệu của nguyên tố
Z : số hiệu nguyên tử
A : số khối A= Z + N



Cl : kí hiệu của nguyên tố clo
17 : số hiệu nguyên tử Z của clo
35 : số khối A của nguyên tử clo


III. Đồng vịCác đồng vị của cùng một nguyên tố hóa học là những nguyên tử có cùng số p nhưng khác nhau về số nơtron, do đó số khối của chúng khác nhau.
Các đồng vị được xếp và cùng một vị trí (ô nguyên tố) trong bảng tuần hoàn.
Ngoài khoảng 340 đồng vị tự nhiên, người ta tổng hợp được hơn 2400 đồng vị nhân tạo. Nhiều đồng vị được dùng trong y học, nông nghiệp, nghiên cứu khoa học…


IV. Nguyên tử khối và nguyên tử khối trung bình của các nguyên tố hóa học
1. Nguyên tử khối
• Nguyên tử khối là khối lượng tương đối của nguyên tử.
• Nguyên tử khối của một nguyên tố hóa học cho biết khối lượng của nguyên tử đó nặng gấp bao nhiêu lần đơn vị khối lượng nguyên tử.
• Khối lượng của nguyên tử coi như bằng khối lượng của các proton và nơtron trong hạt nhân nguyên tử.
• Như vậy, nguyên tử khối coi như bằng số khối.

2. Nguyên tử khối trung bìnhTa có công thức tính nguyên tử khối trung bình của một nguyên tố là


a : phần trăm số nguyên tử đồng vị X (có nguyên tử khối là X)
b : phần trăm số nguyên tử đồng vị Y (có nguyên tử khối là Y)
Ví dụ: cacbon là hỗn hợp của hai đồng vị bền chiếm 98,89% và chiếm 1,11%. Tính nguyên tử khối trung bình của cacbon.
Bài giải :

Bài 1. THÀNH PHẦN NGUYÊN TỬ [Hóa 10]

I. Thành phần cấu tạo nguyên tử
1. Electron
a) Sự tìm ra electron
Năm 1897, nhà bác học người Anh J.J. Thomson nghiên cứu sự phóng điện giữa hai điện cực có hiệu điện thế 15 kv, đặt trong một ống gần như chân không và thấy màn huỳnh quang trong ống phát sáng do những tia phát ra từ cực âm và gọi đó là những tia âm cực.
Tia âm cực có những đặc điểm sau:
Trên đường đi của nó nếu ta đặt một chong chóng nhẹ thì chong chóng bị quay. Điều đó cho thấy tia âm cực là chùm hạt vật chất có khối lượng và chuyển động với vận tốc rất lớn.
Khi cho tia âm cực đi vào giữa hai bản điện cực mang điện tích trái dấu, tia âm cực lệch về phía cực dương. Điều đó chứng tỏ tia âm cực là chùm hạt mang điện tích âm.
Người ta gọi những hạt tạo thành tia âm cực là electron và kí hiệu là e.
b) Khối lượng và điện tích electronKhối lượng: me= 9,1095.10-31 kg hay bằng 0,00055 u.
Điện tích của e là : -1,6.10-19 C(Culông). Người ta chưa phát hiện được điện tích nào nhỏ hơn nên nó được dùng làm điện tích đơn vị, kí hiệu là eo. Do đó, điện tích của electron kí hiệu là – eovà qui ước là 1-.

2. Sự tìm ra hạt nhân nguyên tửNăm 1911, nhà vật lí người Anh Rutherford và các cộng sự đã cho các hạt α bắn phá lá vàng mỏng và dùng màn huỳnh quang đặt sau lá vàng để theo dõi đường đi của hạt α. Hầu hết các hạt α đều xuyên thẳng qua lá vàng, nhưng có một số ít hạt đi lệch hướng ban đầu và một số rất ít hạt bị bật lại phía sau khi gặp lá vàng.
Điều đó chứng tỏ:
Nguyên tử phải chứa phần mang điện tích dương có kích thước rất nhỏ so với kích thước nguyên tử nên nguyên tử phải có cấu tạo rỗng, phần mang điện tích dương là hạt nhân.
Xung quanh hạt nhân có các electron tạo nên lớp vỏ nguyên tử.
Khối lượng nguyên tử hầu hết tập trung ở hạt nhân.

3. Cấu tạo hạt nhân nguyên tử
a) Sự tìm ra proton
Năm 1981, khi bắn phá hạt nhân nguyên tử nitơ bằng hạt α, Rutherford đã phát hiện ra một loại hạt có khối lượng 1,6726.10-27 kg, mang một đơn vị điện tích dương (kí hiện là eo; quy ước là 1+). Đó chính là hạt proton, được kí hiệu bằng chữ p.
Hạt proton là một thành phần cấu tạo của hạt nhân nguyên tử.
b) Sự tìm ra hạt nơtronNăm 1932, J.Chadwick dùng hạt α bắn phá hạt nhân nguyên tử beri quan sát thấy sự xuất hiện của một loại hạt mới có khối lượng xấp xỉ khối lượng của proton nhưng không mang điện, được gọi là hạt nơtron, kí hiệu bằng chữ n.
Hạt nơtron cũng là một thành phần cấu tạo của hạt nhân nguyên tử.
c) Cấu tạo hạt nhân nguyên tửHạt nhân nguyên tử được cấu tạo bởi proton và nơtron. Vì nơtron không mang điện, số p trong hạt nhân phải bằng số đơn vị điện tích dương của hạt nhân và bằng số electron quay xung quanh hạt nhân

II. Kích thước và khối lượng nguyên tử
1. Kích thước
Để biểu thị kích thước nguyên tử người ta dùng đơn vị nanomet hay angstrom.
1nm = 10-9 m ; 1 Å = 10-10 m ; 1nm = 10 Å.
Nguyên tử nhỏ nhất là nguyên tử hidro có bán kính khoảng 0,053nm.
Đường kính nguyên tử và hạt nhân Đường kính của electron và proton
Đường kính của hạt nhân nguyên tử còn nhỏ hơn, vào khoảng 10-5nm.
Đường kính của hạt electron và của proton còn nhỏ hơn nhiều, vào khoảng 10-8nm.

2. Khối lượngĐể biểu thị khối lượng của nguyên tử, phân tử và các hạt proton, nơtron, electron người ta phải dùng đơn vị khối lượng nguyên tử, kí hiệu là u .
1u bằng 1/12 khối lượng của một nguyên tử đồng vị cacbon -12.

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2013

Phân tích hình ảnh đầu súng trăng treo trong bài thơ "Đồng chí"


Không biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. ở truyền thuyết “Chú cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hun kết tinh thành hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất đẹp trong bài thơ Đồng chí của mình.

Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu súng trăng treo”. Thế mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.

Đầu súng trăng treo - đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh động. Giữa núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hoà quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ… Giờ đây, người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh trăng toả ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua” hay “đất cày trên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặc kệ”, vẫn say sưa với ánh trăng.

Ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng toả sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những ngươì linh. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.

Đầu súng trăng treo - hình ảnh thật đẹp và giàu sức khái quát. Súng và trưng kết hợp nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu- trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc. Súng là con người, trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hoà tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lí tưởng, mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng tượng xem: giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng khoác trên vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay nòng ngọn súng. Đó là biểu tượng Khát Vọng Hoà Bình, nó tượng trưng cho tư thế lạ quan bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.

Cái thân của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử thay bằng từ mọc thì thật thà quá, làm sao còn nét lãng mạn? Và hãy thay một lần nữa bằng từ “lên” cũng không phù hợp, vì nó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên trăng lặn sẽ không còn cái bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ có “Đầu súng trăng treo” mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của một đêm trăng “đứng chờ giặc tới”, chẳng thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu bài thơ dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại “đêm nay” trong một không gian mà mặt đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút. Thế nhưng người lính ấy vẫn đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì vầng trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba chiều. ở đây, từ điểm nhìn xa, cả vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội họa nó mang tính biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này: “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì “Và vầng trăng vượt lên trên quầng lửa” hay Hoàng Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thôi một nửa. Ai bỏ quên ở phía chân trời…”. Nhưng có lẽ cô kết nhất, hay nhất vẫn là “Đầu súng trăng treo”.

Như đã nói ở trên, không phải ngẫu nhiên mà Chính Hun lấy hình ảnh “Đầu súng trăng treo” làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạng nhưng không thoát li, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vô cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ Việt Nam nhưng chưa có sự kết hợp kì diệu nào bằng hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu

Nếu như Elsa Trioslet – nữ văn sĩ Pháp có nói “Nhà văn là người cho máu” thì tôi hãnh diện nói với văn sĩ rằng: Chính Hữu đã cho máu để tạo nên câu thơ tuyệt vời để cống hiến cho cuộc kháng chiến của chúng ta. Và bạn ơi! Bạn hãy thả cùng tôi những chú chim trắng trên bầu trời, hãy hát vang lên ca khúc Hoà Bình vì hình ảnh đầu súng trăng treo mà nhà thơ đã gởi vào đó bao nhiêu khát vọng nay đã thành hiện thực.
Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho tình " Đồng chí"

Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ " Đồng chí" với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng
Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?

Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên,hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ"Đồng chí", Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:

"Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"


Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. "Anh" và "tôi", hai người bạn mới quen, đều xuất than từ những vùng quê nghèo khó. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họp tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu,họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:

"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"


Họ đến với Cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. "Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình". Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào....Dường như tình đồng đọi cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn,câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:

"Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !..."


Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ dưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất. Nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn.. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu.
Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:

"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay"


Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao ! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa là những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng,họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ.Họ lơn lên trong những "gian nhà không mặc kẹ gió lung lay". Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc....Nhưng...họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả nhưng bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dẫu răng" mặc kệ" nhưng trong lòng họp vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn,nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay đọng hồn thơ, hồn người:

"Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"

Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa "giếng nước gốc đa" cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chòng và những đôi trai gái yêu nhau....

Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:

"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần anh có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày"


Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả, thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng,phải đối mặt với sốt rét rừng,cái lạnh giá của màn đêm.....Chỉ đôi mảnh quần vá,cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng,nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa...Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cả những người lính. Tình đồng chí:

"Là hớp nước uống chung, năm cơm bẻ nửa
Là chia nhâu một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chặt hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết"
(Nhớ - Hồng Nguyên)


Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tổ quốc, một nụ cười ngạo nghễ, yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng...

"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới"


Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết. Vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ,câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:

"Đầu súng trăng treo"

Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:

"Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ"
( Ánh trăng- nguyễn Duy)

Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian,ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. người chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau " kề vai sát cánh" cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.

Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình.

Bài thơ " Đồng chí" với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.....


                                                                                                            [ Sưu tầm ]

Thứ Năm, 11 tháng 4, 2013

Phân tích "Bến quê" - Nguyễn Minh Châu



Là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu có nhiều những tìm tòi quan trọng góp phần đổi mới văn học nước nhà .Truyện ngắn của ông thường chứa đựng những suy ngẫm trải nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời. “Bến quê” là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đó.


Toàn bộ câu chuyện xoay quanh nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối đời .Chuỗi nghịch lý bắt đầu chính trong những ngày ấy. Bị cột chặt trên giuờng bệnh, Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông.


Cảnh vật nơi ấy đẹp như thơ như hoạ: Những bông bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng đậm sắc, con sông Hồng màu đỏ nhạt, ánh nắng sớm, vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông …Những cảnh sắc vốn quen thuộc gần gũi nhưng dường như rất mới mẻ đối với anh. Chính vào lúc nhận ra vẻ đẹp và sự giàu có của bến quê cũng là lúc Nhĩ hiểu ra một cách đau xót, bởi một người “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất ” lại chưa từng đặt chân lên “cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình ”.


Căn bệnh liệt gắn chặt Nhĩ vào giường bệnh. Mọi sinh hoạt của anh trông cả vàosự chăm sóc của vợ con. Sáng hôm ấy, bằng trực giác, anh nhận ra thời gian của mình chẳng còn bao lâu nữa, anh mới cảm nhận thấm thía về người vợ của mình.Nhĩ để ý “thấy Liên mặc áo vá ”, “những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh ”, anh nói với vợ những lời xót xa, ân hận : “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm ”. Giờ đây Nhĩ mới thực sự thấu hiểu và biết ơn vợ sâu sắc bởi “tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa và cũng chính nhờ điều đó, mà sau nhiều tháng ngày bôn tẩu tìm kiếm, Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này ”. Nhĩ -con ngưuời củamột thời huy hoàng, cho đến khi không còn khả năng đi lại mới phát hiện ra vẻ đẹp của bến quê cũng như sự tảo tần và đức hy sinh của vợ. Trước khi ốm anh chỉ biết đến những chân trời xa ngát với những công việc cao sang mà thờ ơ, vô tình với tất cả những gì gần gụi xung quanh, kể cả nguười vợ suốt một đời yêu thương và tận tuỵ. Sự thấu hiểu muộn màng trong những ngày cuối đời dù sao cũng đem lại cho anh sự bình yên, tin cậy sau cả một đời bôn tẩu, kiếm tìm.
Song nghịch lý của câu chuyện không chỉ có thế. Cũng trong buổi sáng
hôm ấy, khi nhận ra vẻ đẹp qua ô cửa sổ, Nhĩ bừng dậy nỗi khát khao
cháy lòng và vô vọng là một lần được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông.
Khát khao đó mang ý nghĩa sâu sắc bởi đó chính là sự thức tỉnh về
những giá trị bền vững, bình dị mà sâu xa của cuộc sống, những giá trị
dễ bị ta vô tình, bỏ qua và quên lãng nhất là lúc còn trẻ khi những khát vọng xa vời vẫy gọi, cuốn người ta đi. Sự nhận thức này chỉ đến được
với ta khi đã từng trải. Với Nhĩ, đó là lúc cuối đời khi phải nằm liệt trên
giường bệnh. Vì thế đó là sự thức tỉnh pha lẫn niềm ân hận xót xa : “Hoạ
chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa
lạ mới nhìn thấy hết mọi sự giàu có lẫn vẻ đep của bãi bồi sông Hồng
ngay bờ bên kia cả trong những nét tiêu sơ và cái điều riêng anh khám
phá thấy giống như một niềm say mê pha lẫn nỗi ân hận đau đớn ”. Với
anh, bây giờ đó thực sự là miền đất xa lắc vì Nhĩ “lực bất tòng tâm ” .
Không thể tự làm điều mình khao khát, Nhĩ nhờ con trai thay mình sang
sông, đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ. Oái oăm thay, đứa con không
hiểu ước muốn của cha ,đã đi một cách miễn cưỡng và bị cuốn vào trò
chơi phá cờ thế trên hè phố. Cậu con trai có thể lỡ chuyến đò duy nhất
trong ngày. Từ đó Nhĩ nghiệm ra một qui luật khá phổ biến của đời
người “Con nguười ta trên đường đời thật khó tránh đuợc những điều
vòng vèo hoặc chùng chình”. Anh không trách con vì “nó đã thấy gì hẫp
dẫn bên kia sông đâu ”.
Ở cuối truyện, khi Nhĩ tưởng tượng chính mình như một nhà thám hiểm
đang chậm rãi đặt từng bước chân lên mặt đất dấp dính phù sa. Nhĩ xúc
động mạnh, chân dung anh khác thường “mặt mũi đỏ rựng, hai mắt long
lanh chứa môt nỗi say mê đầy đau khổ ”. Khi con đò sắp chạm vào bờ
đất bên này, Nhĩ thu hết tàn lực, đu người lên cửa sổ, giơ cánh tay gầy
guộc “khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó ”. Phải chăng anh đang nôn nóng thúc giục con trai hãy mau hơn kẻo lỡ
chuyến đò duy nhất trong ngày? Và duờng như nó còn có ý nghĩa khái
quát hơn: Muốn thức tỉnh mọi người vượt lên những cái vòng vèo hoặc
chùng chình trên đường đời để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất
gần gũi bình dị mà bền vững !
Bằng cách tạo dựng chuỗi nghịch lý để nhân vật tự nhận thức, suy ngẫm
và cách xây dựng nhiều hình ảnh, chi tiết mang ý nghĩa biểu tượng tác
giả đã tạo nên ý nghĩa sâu xa cho tác phẩm. Ngòi bút miêu tả thiên nhiên
đẹp, tinh tế, giọng văn thầm trầm ẩn chứa những chiêm nghiệm, suy
ngẫm của tác giả đã góp phần không nhỏ tạo nên những ấn tượng riêng
cho tác phẩm.
Những dòng cuối cùng của “Bến quê” khép lại nhưng dư âm từ những trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và con ngưuười dường như vẫn còn lan toả đâu đây, thức tỉnh trong ta sự trân trọng vẻ đẹp về những gì bình dị, gần gũi của gia đình, quê hưuơng, xứ sở.tác giả tạo ra hoàn cảnh đối nghịch: nhân vật Nhĩ là người từng trải từng đi khắp thế giới nhưng cuối đời lại bị bó buộc nơi giường bệnhtrong khoảng thời gian đó,anh đã nhìn ngắm được những vẻ đẹp mà không nơi nào khác trên thế gian mà anh cảm thấy được: quê hương anh với những bông hoa bằng lăng tím nhợt nhạt, những bãi bồi phù sa, những con người thôn quê chân chất thật thà giàu lòng nhân ái, gia đình thân yêu với người vợ sơm hôm tần tảo vì chồng, đứa con trai ngoan hiền hiếu thảo, những cô cậu bé ngây thơ tốt bụng, và đặc biệt là cái bến quê quá đỗi thân thuộc mà anh chưa bao giờ đặt chân đến trong cuộc sống đững nên vì những thứ vật chất lòng vòng xa vời mà bỏ quên những giá trị tinh thần hết sức giản dị nhưng ẩn chứa những ý nghĩa vô cùng lớn lao. Đó chính là lời khuyên chân thành tác giả muốn nhắn nhủ với các độc giả

Nhân vật Nhĩ có một hoàn cảnh thật đặc biệt. Lúc còn trẻ anh đã đi khắp nơi trên thế giới nhưng cuối đởi lại bị cột chặt trên giường bệnh bởi một căn bệnh hiểm nghèo, đến nhích người về phía cửa sổ cũng phải có người đỡ. Và trong cái hoàn cảnh éo le ấy, anh chợt nhận ra vẻ đẹp bình dị của bến quê, nhận ra cái quí nhất trong cuộc đời mình chính là gia đình.

Nổi bật ở nhân vật Nhĩ là tình yêu gia đình. Anh rất yêu vợ. Chẳng phải vì thế mà anh đã nghĩ :" Tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và hi sinh từ bao đời xưa" Và Nhĩ cũng rất yêu quí con. Anh muốn nhờ Tuấn sang bãi bồi bên kia sông không chỉ vì đó là ước mơ mà anh không thực hiện được mà còn vì anh không muốn Tuấn giống như mình: bỏ qua cái đẹp bình dị của quê hương để chạy theo cái hào nhoáng nhất thời để rồi đến khi hối hận cũng không kịp. Nhĩ không muốn sau này con anh phải chịu cái ân hận đau đớn mà anh đang chịu. Nhưng cao hơn tình yêu gia đình chính là tình yêu quê hương xứ sở, cái bến quê bình dị. Anh từng đi tới bất cứ nơi xó xỉnh nào trên trái đất nhưng lại chưa một lần đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Điều đó dày vò Nhĩ không thôi. Anh cảm thấy có lỗi với cái mảnh đất đã nuôi anh khôn lớn. 

Đó chẳng phải là tinh yêu anh giành cho quê hương mình sao? Và cũng chính cái tình cảm ấy đã thôi thúc Nhĩ đặt chân lên cái bãi bồi thân thương ấy đến nỗi trở thành một khao khát, cái khao khát mà anh đã tin cậy nhờ Tuấn thực hiện giùm nhưng anh chàng lại sa vào đám chơi cờ
thế. Cái tình yêu, cái khao khát ấy như được đẩy lên cao nhất ở chi tiết cuối cùng:"Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía
ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó

Nguồn: Tailieu.vn

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

Bếp lửa sưởi ấm một đời – Bàn về bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt.


Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình. Trong thời kỳ đất nước chống giặc ngoại xâm, biết bao người đã rời khỏi gia đình để nhập ngũ, dốc sức vì đất nước. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ mà bố mẹ ông đều đi đánh giặc. Một mình sống với bà nhưng ông không hề cảm thấy cô đơn mà còn rất tự hào và vui sướng vì được sống bên bà. Ông đã sáng tác nên bài thơ “Bếp lửa” để nói lên tình cảm của ông giành cho bà cũng như khẳng định rằng bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người.

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa” đã đi liền với các từ láy chờn vờn, ấp iu… gợi cho ta cái cảm giác ấm áp với tình cảm chứa chan. Và ngay lập tức, hình ảnh người bà đã hiện lên. Ở đây, bà không hiện lên như một bà tiên mà hiện lên trong trái tim của người cháu nhớ về người bà gian nan.

Từ hồi ức dần dần trở về dưới những dòng thơ của tác giả:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

Trong tình cảnh nạn đói của đất nước, gia đình tác giả cũng không phải là ngoại lệ. Bố ông còn con ngựa để đi đánh xe là may mắn lắm. Nhưng cái không khí nghèo túng của toàn xã hội đã bao phủ tất cả. Gần hai mươi năm sau, khói vẫn làm cay mắt tác giả. Cái “cay” này không phải là cái “cay” do củi ướt, củi tươi mà cái cay đắng cuả những kỉ niệm đói khổ của nhiều người, trong đó có hai bà cháu tác giả.

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”

“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tìng yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc văng vẳng từ nững cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơ, rộng hơn trong cái không gian xa thẳng của nỗi nhớ thương.

“Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc

Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”

Qua đoạn thơ này ta thấy hiện lên một căn nhà quạnh quẽ giữa đồng, chỉ hẩm hút có một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì ốm yếu hom hem. Bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh cái bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa ở đây không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp, nương náu để hai bà cháu sinh sống.

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ.? cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đoiá với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Nững bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thất sự một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu be ùbỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,... Nhà thơ bổng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.


Chiến tranh, một danh từ bình thườnh nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi...


“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”


Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lứccủa bà càng bền vững, tấm lòng ủa bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã khong còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ. “Cứ bảo nhà vẫn đươc bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho nhữnh người phụ nữa Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con qúy cháu.


Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn, một ngọn lửa:


“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.


Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng si sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.
Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thớ muốn gửi tới bạn đọc, qua đó cũng là những bài học sâu sắc từ công việc nhỏ, lửa tưởng chừng đơn giản:


“ Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”


Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.


“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”


Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩ tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống vơi nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.


“Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”
“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ.
“Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”.


Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:


“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”


Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà.Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trờ thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu.


Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, nhà thơ Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:


“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lưả trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”


Xa vòng tay chăm chút cuả bà để đến vơí chân trơì mới, chính tình cảm cuả hai bà chaú đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái muà đông lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu nhỏ cuả bà ngàu xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vần luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nới nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đưá cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cuả đưá chaú đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.


Qua bài thơ, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Bếp lửa là hình ảnh đẹp nhằm gợi tả sự ấm áp của gia đình đối với mỗi người. Bài thơ “Bếp lửa” sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng cuả ta.



                                                                                       (Nguồn: http://yume.vn/sissy_kiss/article)

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2013

Phân tích bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương

Bao giờ cũng thế, một tác phảm đặc sắc phải bao gồm cái đặc sắc và thành công về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm ấy như một nguồn nước giếng trong, khơi mãi vẫn không hết cái ngọt ngào, lắng sâu của tình yêu con người, vẫn không cạn nguồn sức mạnh truyền vào trong cuộc sống. Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một tác phẩm như thế. Được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình này đã ghi lại tình cảm sâu lăng, thành kính cảu nhà thơ khi hoà vào dòng người viếng lăng Bác. Bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi niềm tâm sự của nhận dân Nam bộ và nhân dân cả nước dành cho Bác.

Mở đầu bài thơ là cảm xúc của tác giả khi vừa bước chân vào lăng. Nhà thơ xưng “con” và gọi “Bác”; lời thơ giản dị, mộc mạc mà chát chức bao tình cảm gần gũi, thân thương, kính trọng chủ tịch Hồ Chí Minh của ông. Điều đó càng cho thấy Bác là một con nguời rất hoà đồng và gần gũi. Chính vậy nhà thơ Tố hữ có viết “Người là Cha, là Bác, là Anh”. Chi tiết thơ “Con ở miền Nam” còn mang một sắc thái đầy xúc độgn. Khúc ruột miền Nam là miền đất xa xôi mà Bác không nguôi ngóng chờ, cho đến những ngày trước luc lâm chung thì trái tim ngươờ vẫn luôn huớng về mìen Nam ruột thịt. Nơi đó có biết bao đồng bào ta đang ngày đêm chiến đấu và anh dũng hy sinh vì một nàgy mai nước nhà thống nhất. Nhưng…Bác đã không chờ được đến ngày đó. Người đã ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng để lại muôn vàn niềm thương tiếc cho nhân dân ta. Câu thơ đầu gọn như một lời thông báo nhưng lại chứa chan bao tình cảm xúc độgn, bồi hồi của tác giả đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.

Và trong cái mênh mang sương mù của mọt ngày mùa thu Hà Nội, qua con mắt thi nhân của Viễn Phương, ta chợt tìm thấy một “hàng tre” Việt Nam. Đến với Bác, đến với hàng tre, ta như đến với quê hương làng mạc, đến với mái nhà tranh âm vang lời ru của bà, của mẹ; đén với Bác là đến với dân tộc mình, thế mới đẹp làm sao! Hình ảnh nhân hoá hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” còn là biểu tượng bất diệt của con người VN kiên cường, bất khuất biền bỉ. Màu xanh của tre chính là màu xanh của sức sốg VN, màu xanh của hy vnọg, hạnh phúc và hoà bình. Đây quả là một tứ thơ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàg”
Và nhà thơ phải kính yêu Bác lắm mới viết được những hình ảnh ẩn dụ tài tình này:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Cũng là “mặt trời” nhưng “mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên vũ trụ, ngày ngày tỏ sáng, đem sự sống cho muôn loài, vạn vật, nó cũng có lúc quạnh quẽo, u ám. Còn “mặt trời” của nhận dân VN. “mặt trời” trong lăng thì vẫn luôn chiếu ánh sáng vĩnh hằng, đỏ mãi. Bác chính là vầng mặt trời hồng toả tia sáng soi rọi con đừơng giúp dân tộc ta thoát khỏi kiếp đời nô lệ, là sức mạnh giúp nhân dân ta chèo lái con thuyền cách mạng cập bến vinh quang, đi đến bờ thắng lợi. Dù rằng đã ra đi mãi mãi nhưng Bác vẫn luôn bất tử, tư tưởng HCM vẫn luôn trường tồn, soi đường dẫn lối cho dân tộc ta đứng lên.

Hoà nhịp với gần trăm triệu bàn chân VN, hàng triệu bàn chân lao độgn trên thế giới, Viễn Phương bùi ngùi xúc động bước vào lăng:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như nhưng trànghoa dâng lên người. “Bảy mươi chín” tràng hoa, ấy là bày mươi chín màu xuân, bày mươi chín năm cống hiến, hy sinh hết mình của Bác đối với dân tộc và nhân dân ta. Và quả thật, Bác chính là mùa xuân, và mùa xuân ấy đã làm cho cuộc đời người dân VN nở hoa. Điệp ngữ “ngày ngày” đứng mỗi ý thơ giữ vị trí “nhãn tự”, vừa thể hiện một qui luật trình tự của dòng người vào lăng viếng Bác, lại vừa thể hiện một qui luật tự nhiên của tạo hoá.
Đứng trước sự vĩ đại, to lớn của Bác, ta cũng vô thức bị dòng thơ cuốn và trong lăng lúc nào không hay:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vãn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Bác đang nằm đây, ngay trước mắt nhà thơ, hiền hậu, nhân từ như một vầng trăng “dịu hiền”, mát mẻ mà vãn trong sáng rạng ngời.Ta có cảm giác như Bác vẫn chưa đi xa, vẫn chưa rời khỏi thế gian này mà Người đang ngủ đấy thôi. Lí trí thì nói bác đang ngủ, nghĩa là Bác vẫn còn sống mãi với đất nước, với dân tộc ta như trời xanh còn mãi trên đầu. Mỗi ngày ngẩng đầu nhìn ta lại thấy trời xanh, lại thấy Bác. Bác không bao giờ mất, Bác sống mãi cùng dân tộc ta, trong mỗi cuộc đời, trong mỗi sự việc mà chúng ta làm vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Ta biết thế, ta nghĩ thế nhưng sao tim ta vẫn “đau nhói”, mắt ta vẫn trào dâng khi nhận ra rằng: Bác đã không còn nữa! Khổ thơ thứ hai và ba là một chuỗi các hình ảnh vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh ***g vào nhau như để ca ngời tầm vóc lớn lao của Bác; đồng thời thể hiện lòng tôn kíh vô hạn của tác giả, của nhân dân đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.

Bài thơ bắt đầu bằng sự kiện “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” và cũng kết thúc bằng chi tiết “Mai về miền Nam”. Đây là giờ phút sắp chia tay với Bác, tâm trạgn nhà thơ tràn đầy niềm cảm thương xen lẫn bùi ngùi, lưu luyến. Điều đó được thể hiện qua hình ảnh cuờng điệu: “Thương trào nước mắt” :

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Múon làm đóa hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Tình thương xót nén giữa tam hồn đã làm nảy sinh bao ước muốn: “muốn là con chin” để dâng lên tiếng hót vui, “muốn là đoá hoa” dâng hương thơm ngát, “muốn làm cây tre trung hiếu” canh gác chi giấc ngủ yên lành của Bác. Nhịp điệu khổ thơ lúc này dồn dập với điệp ngữ “muốn làm” nhắc lại đến ba lần và các hình ảnh liên tiếp xuất hiện như một dòng khát khao mãnh liệt của nhà thơ muốn được gần Bác mãi mãi.

Bằng tất cả tình cảm chan thành, Viễn Phương đã làm “Viếng lăng Bác” trở thành một bản tình ca bất tận để lại ấn tượgn sâu sắc cho bao người dân Việt Nam. Bài thơ hay không chỉ vì các nghệ thuật, kĩ sảo độc đáo mà quan trọgn hơn, đó là sự kết hợp nhuẫn nhị giữa cái “tâm” của một nguời con yêu nước và cái “tài” của người nghệ sĩ. Rất nhiều năm tháng đã đi qua nhưng mỗi thế hệ đọclại “Viếng lăng Bác” đều đón nhận vào tâm hồn mình một ánh sáng tư tưởng, tình cảm của nhà thơ và đồng thời cũng thấm nhuần vẻ đẹp trong suốt, lấp lánh toả ra từ chính cuộc đời, trí tuệ và trái tim Bác Hồ.

( Nguồn: http://ebookso1.com/forum/threads/48060-Phan-tich-bai-tho-Vieng-lang-Bac-cua-Vien-Phuong.html?s=4697b843a8c97dc5f6f9e603d5997355#ixzz2NnoBF22l )

Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

TINH THẦN TỰ HỌC { Nghị luận xã hội ( Dàn ý - Bài mẫu ) } [ Ngữ Văn 9 ]



TINH THẦN TỰ HỌC  
Dàn ý:
I.MB :
- Trong nhà trường, ngoài việc tiếp thu kiến thức do các thầy cô truyền đạt, người học sinh cần có biện pháp mới có thể giỏi được.
- Một trong số những biện pháp có kết quả là phương pháp tự học.

II.TB :
1) GIẢI THÍCH :
-“Tự học” nghĩa là tự mình vạch ra kế hoạch, tự mình đặt ra biện pháp để giúp cho việc học tốt hơn.
-“Tự học” là phần làm việc ở nhà trước khi vào lớp tốt hơn.

2) CHỨNG MINH :
- Trong thực tế có biết bao gương tự học đã làm nên danh phận như: Mạc Đỉnh Chi tự học thi đỗ Trạng nguyên, Mã Lương tự học và vẽ như thật, Bác Hồ tự học và biết nhiều thứ tiếng.

3) PHÊ PHÁN :
- Những kẻ lười học, xem việc học là khổ sở, là bắt buộc nên chán học , lười hoc.

4) ĐÁNH GIÁ :
- Việc tự học ở nhà của người học sinh thường là soạn bài,làm bài, học bài, xem trước bài mới
- Người học lên kế hoạch cho mình, học vào lúc nào, học những gì? Cài gì trước, cái gì sau.
- Học sinh chuẩn bị bài trước khi vào lớp sẽ dễ hiểu hơn,sẽ trả lời được các câu hỏi của thầy cô đặt ra, đồng thời tạo ra hứng thú hơn trong việc học.
-“Tự học” là biện pháp giúp người học sinh tự tìm hiểu lấy kiến thức.
-“Tự học” là phương pháp mới giúp học sinh năng động hơn trong học tập.
- Đó còn là cơ sở thể hiện năng lực tư duy sáng tạo, biết sắp xếp công việc có khoa học.
- Người học sinh có biện pháp tự học là biết làm chủ lấy mình.

III.KB :
-Tinh thần tự học giúp con người nâng cao kiến thức, tự làm chủ lấy mình, tự đặt ra kế hoạch trong học tập.
- Tinh thần tự học rất cần cho tất cả mọi người.
- Mỗi học sinh cần đề ra cho mình biện pháp tự học.


Hệ thống luận điểm:

1. Thế nào là tự học ? - Tự học là không ai bắt buộc mà tự mình tìm tòi, học hỏi để hiểu biết thêm.

2.Lợi ích và hứng thú của công việc tự học ?
- Ở bất cứ bộ môn nào, lĩnh vực nào, kiến thức cũng liên tục thay đổi theo những kết quả nghiên cứu mới, đáp ứng yêu cầu do cuộc sống đặt ra. Trong khi đó, kiến thức ở trường học phải theo một khung chương trình nhất định, phù hợp với nhiều đối tượng, nên có khi không bắt kịp sự thay đổi đó, không đáp ứng đầy đủ yêu cầu của người học.
- Tự học giúp chúng ta bổ khuyết nền giáo dục ở trường, bắt kịp những kiến thức phong phú, mới mẻ, đáp ứng được nhu cầu của thời đại. Dù làm ngành gì, nghề gì cũng cần tự học thường xuyên. Nếu không chúng ta sẽ trở nên lạc hậu, cũ mòn.
- Đồng thời, bên cạnh việc đem lại những kiến thức, việc tự học cũng đem lại sự hứng thú, yêu thích lĩnh vực mà mình theo đuổi.

3. Tự học như thế nào để đạt hiệu quả ?
- Có hai kiểu tự học chính: tự học có người chỉ dẫn và tự học không có người chỉ dẫn. Tuy nhiên, dù học theo kiểu nào, hình thức tự học quan trọng nhất vẫn là đọc sách. (Gần đây có thêm hình thức truy cập thông tin trên mạng Internet, tuy nhiên đó cũng chỉ là nguồn thông tin khác nhau. Điều quan trọng nhất vẫn là cách đọc và xử lý thông tin của người tự học)
- Đọc sách là một việc quen thuộc của người tự học và mỗi người có thói quen đọc sách khác nhau. Tuy nhiên, cần phải rèn luyện những kỹ năng, thói quen tốt để việc đọc sách thực sự có hiệu quả .
- Quan sát, tìm hiểu trong thực tế cuộc sống ở lĩnh vực bộ môn mình nghiên cứu .
- Lịch sử khoa học-nghệ thuật thế giới đã có những tấm gương tự học vĩ đại: nhà bác học Ê-đi-xơn, tác giả của hàng ngàn phát minh khoa học có ích cho nhân lọai, đại văn hào Nga Mácxim Gorki, người coi cuộc sống là "những trường đại học của tôi"....Việt Nam cũng có những tấm gương như thế :Chủ tịch Hồ Chí Minh, người luôn tự học không ngừng ở nhiều lĩnh vực, biết nhiều ngọai ngữ; học giả Đào Duy Anh, tác giả nhiều từ điển, nhiều công trình nổi tiếng ....vv

Bài mẫu:

Bài 1:

    Người xưa đã nhắc nhở con cháu rằng: “Nếu còn trẻ  mà chẳng chịu học hành thì khôn lớn sẽ  chẳng làm được việc gì có ích” hoặc “Bất học bất tri lí”. Vậy thì chúng ta cần học thế nào cho đúng, cho có kết quả? Và qua kinh nghiệm bao đời được đúc kết, người ta đã nhận ra rằng chỉ có tự học mới là phương pháp hữu hiệu nhất. 
    Suốt lịch sử phát triển mấy nghìn năm, nhân loại  đã tích lũy được một kho tàng tri thức khổng lồ. Vì thế, muốn tiếp thu những tinh hoa ấy, con người chỉ có một cách duy nhất là phải học suốt đời. Bác Hồ đã từng dạy: “Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân”, Lê-nin đã khuyên: “Học, học nữa, học mãi”. Vì thế, tự học là xác định được ý thức, học có mục đích và học một cách tự giác. 
    Thực tế đã cho ta thấy những tấm gương tự học như Mạc Đĩnh Chi vì nhà nghèo, không có tiền mua dầu thắp sáng nên ông đã bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng thay đèn để học bài. Hay nhà toán học Lương Thế Vinh  từ một đứa trẻ chăn trâu vẫn luôn tu chí học hành, hoặc không ai xa là Bác Hồ từ một anh Ba phụ bếp, người thợ ảnh ở ngõ nhỏ đến người thợ quét tuyết trong công viên, Bác vẫn không ngừng tiếp thu và học tập để nâng cao hiểu biết về văn hóa, lịch sử nhân loại, rút ra những kinh nghiệm bổ ích và Người đã trở thành một danh nhân văn hóa thế giới… 
    Những minh chứng trên phải chăng đã quá sáng tỏ để nhận ra rằng, có tự học, chúng ta mới xác  định được năng lực của bản thân. Khổng Tử đã dạy: “Bể học không bờ”, vì thế ta không nên nản lòng khi thấy việc học của ta còn nông cạn, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm và ta cần phải cố gắng bồi đắp bằng ý chí và nghị lực của mình bởi việc tích lũy kiến thức của con người như “Kiến tha lâu đầy tổ”. 
    Càng học chúng ta mới nhận ra rằng có tự học, chúng ta mới tiến bộ nhanh và có những kết quả vững chắc. Tự học sẽ giúp chúng ta có thêm nghị lực, niềm tin trong cuộc sống. Ngạn ngữ Hi Lạp có câu: “Học vấn như những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngào”. Vì thế bước đường tự học bao giờ cũng sẽ bắt đầu với nhiều trở ngại, khó khăn dễ làm ta chùn bước nhưng nếu ta có ý chí, quyết tâm vươn lên trở ngại khó khăn thì những đắng cay sẽ cho ta những hoa quả ngọt ngào. Lúc bấy giờ, ta mới thấy được hết giá trị của học vấn. Như cô bé Trần Bình Gấm bán khoai đã đậu ba trường đại học, nhận học bổng “Học trò giỏi- hiếu thảo” của báo Tuổi trẻ bằng tinh thần tự học, bằng sự cần cù, siêng năng, vượt qua khó khăn, không ngừng nâng cao kiến thức của bản thân mình là một tấm gương cho bao bạn trẻ hôm nay. 
    Nhưng lại có một thành phần các bạn trẻ ngày nay được học ở trường dưới sự dìu dắt của thầy cô nhưng chỉ học chày, học vẹt, học dựa dẫm thì kết quả sẽ không có hoặc chỉ là những điểm ảo. Một khi các bạn ấy tự bơi vào biển rộng, họ sẽ chìm ngập vì không có phao, không có bàn tay của thầy. Phải chăng đó là điều các bạn muốn? Để tự tin hơn trong học tập cũng như cuộc sống sau này, mỗi người cần phải trang bị một khối lượng kiến thức cũng như một cách học phù hợp, phải xác định đúng mục đích và động cơ học tập; học để nắm vững những kiến thức cơ bản, học và làm bài đầy đủ để cũng cố kiến thức… tham khảo trong cuộc sống để mở rộng vốn hiểu biết… Học ở sách là một trong những phương pháp tự học tốt nhất nhưng việc học này cần phải được thực hiện thật nghiêm túc, tức là đọc có chọn lọc, suy nghĩ, có hệ thống chứ không phải là chép, học thuộc để đối phó… Vẫn còn rất nhiều phương pháp tự học, vì vậy, mỗi người cần phải tự chọn cho mình một cách học phù hợp và hiểu quả nhất. 
    Tự  học là phương pháp tốt nhất để tiếp thu, tích lũy những điều thú vị ở quanh ta. Mỗi người cần tập dần tính tự học để có kiến thức uyên bác làm giàu cho đất nước. Thế hệ trẻ ngày nay muốn chiếm lĩnh được đỉnh cao khoa học, làm chủ cuộc sống và tương lai thì phải xác định được phương pháp học tập đúng đắn nhất là tự học. 




Bài 2:

Ngày nay, khi khoa học kĩ thuật phát triển thì việc học tập cũng phát triển theo. Chính vì vậy giới học sinh chúng ta đã sáng tạo ra rất nhiều cách học nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho bản thân. Nhưng theo tôi: trong học tập, tự học là cách học tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong khi học. Và khi nói đến vấn đề này, tôi muốn mọi người hiểu được trước nhất là ý nghĩa của việc học rồi mới đến cách tự học. Vậy học là gì ?
Tự học là gì ? Học là quá trình con người tiếp thu những kiến thức, kĩ năng do người khác truyền lại và tự học là việc con người phát huy những kiến thức,kĩ năng đã được truyền lại bằng chính sức lực,khả năng của riêng mình. Thực tế ngày nay cho thấy các cách học của các bạn chưa mang lại hiệu quả cao.
Học sinh ngày nay đã quá phụ thuộc vào các bài giảng của thầy cô trên lớp, thầy cô dạy như thế nào thì lại hiểu và học như thế ấy dẫn đến quá trình thụ động, thiếu suy nghĩ và sáng tạo trong lúc học để đào sâu kho tàng kiến thức còn ẩn sâu các bài giảng của thầy cô.
Và cũng chính vì chỉ học cô đọng trong các bài giảng bốn mười lăm phút trên lớp của thầy cô mà dẫn đến tình trạng học sinh phải đi học thêm tràn lan. Mà khi đã học thêm tràn lan thì lại càng khiến mọi người không chịu tự học, càng thêm phụ thuộc vào việc học thêm. Thêm việc ngày nay khi việc học được nâng cao thì có quá nhiều sách tham khảo, văn mẫu, hướng dẫn...dẫn đến việc học sinh đâm lười suy nghĩ trong khi làm các bàitập.

Hậu quả của những việc trên rất nặng nề vì như vậy sẽ dễ dẫn đến hiện tượng "học vẹt": học thuộc bài nhưng không hiểu nội dung, vấn đền được nêu ra trong bài dẫn đến việc học xong là quên ngay, kiến thức không bền và sẽ không làm được các bài tập thực hành, chỉ học lí thuyết suông, kiến thức sẽ ngày càng rỗng, thành tích học tập sẽ càng sút kém khiến mọi người đâm nãn chí. Một khi kiến thức đã trang bị không chắc chắn thì kết quả sẽ không bao giờ cao.

Chính những thực tế được nêu trên lại càng khẳng định việc tự học cho bản thân là rất quan trọng. Nó chính là một chiếc chìa khóa đưa ta đến kho tàng tri thức, là điều kiện giúp ta thành công trong học tập. Nếu chúng ta biết tự học cho bản thân thì chúng ta chắc chắn sẽ thành công và nâng cao được tri thức của chính mình. Tự học giúp con người có được ý thức tốt nhất trong quá trình học: chủ động suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn đề từ đó tự học giúp ta tiếp thu được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, từ truyền hình ti vi,từ bạn bè hoặc từ những người xung quanh,những kinh nghiệm sống của nhân dân.
Tự học giúp ta có thể chủ động ghi nhớ các bài giảng trên lớp,tiết kiệm được thời gian, có thể tiếp thu một lượng kiến thức lớn mà vẫn hiểu và nắm chắc bài học. Và qua tự học, từ lí thuyết, chúng ta biết chủ động luyện tập thực hành,giúp ta có thể nhanh chóng hình thành kĩ năng,củng cố và nâng cao kiến thức đã học.Vì vậy,chủ động tự học sẽ giúp ta tìm ra được phương pháp học tốt nhất mang lại hiệu quả cao cho chính bản thân mình.
Ví như các vị danh nhân nổi tiếng trên thế giới thành đạt trong sự nghiệp học tập,có được kiến thức uyên thâm cũng là nhờ biết chủ động tự học mà dẫn đến thành công như Thần đồng Lương Thế Vinh khi xưa,nhờ cố gắng chủ động tự học cộng với phẩm chất thông minh trời ban mà sau đỗ trạng,chế ra bảng cửu chương còn lưu truyền mãi đến ngày nay...hayTrạng nguyên lừng danh Mạc Đinh Chi, lúc nhỏ nhờ biết chủ động tự học, sáng tạo cách học bắt đom đóm bỏ vỏ trứng mà sau đỗ trạng, đi xứ làm rạng danh nước nhà, được phong "Lưỡng Quốc Trạng Nguyên" vang danh hai nước, ghi vào sử sách nhân loại về những tấm gương tự học sáng ngời.
Tuy phương pháp tự học đã có từ lâu đời những đó là một phương pháp rất có hiệu quả cho việc học tập.Tôi khẳng định rằng tự học là chìa khóa,là con đường đưa ta đến thành công...Vị lãnh tụ vĩ đại ngày trước của dân tộc Việt Nam ta cũng đã từng nỗ lực tự học, Bác đã tự say mê tìm tòi học hỏi và đã thành công,thông thuộc được nhiều ngôn ngữ của các nước trên thế giới và tìm ra được con đường cứu nước,đưa cả dân tộc Việt Nam ra khỏi ách đô hộ của giặc Tây tàn ác, hướng đến nền độc lập,dân chủ,tự do,hạnh phúc ngày nay.

Chính vì vậy,tự học là cách tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong học tập,mang lại một kết quả học tập cao nhất có thể.Nếu chúng ta biết nỗ lực tự học,chúng ta sẽ thành công,sẽ mở được một tương lai rộng mở cho chính mình.Nếu chúng ta học tập thành công,chúng ta sẽ trở thành những người có ích cho xã hội,cho đất nước, đưa đất nước ngày càng đi lên, phát triển đến một tầm cao mới. 

                                                                                                                          [ Sưu tầm ]

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

Kết hôn sớm và tảo hôn ở một số tỉnh, thành phố các khuyến nghị trong tương lai



1. Kết hôn sớm và tảo hôn
Số liệu từ Tổng điều tra 2009 cho thấy dân số Việt Nam đang ngày càng kết hôn muộn hơn tuy nhiên đối với một số dân tộc ít người, tảo hôn/kết hôn sớm vẫn còn phổ biến.
Qua ba cuộc tổng điều tra 1979, 1999, 2009 cho thấy nữ thường kết hôn sớm hơn nam, sau tuổi 50 thì hầu hết dân số đã từng kết hôn và ở hầu hết các độ tuổi, tỷ lệ ly hôn/ly thân và góa của nữ đều cao hơn nam giới. Người dân có xu hướng kết hôn muộn hơn và tuổi kết hôn trung bình lần đầu (SMAM) ngày càng tăng, năm 2009 của nam giới là 26,2 và nữ là 22,8; trước đó năm 2005 SMAM của nam là 26,8 và nữ  là 23,5; tương ứng năm 2000 là 25,7 và 22,9. Tỷ lệ nữ góa chồng cũng tăng lên nhanh theo độ tuổi và thời gian, năm 2009 hơn 50% phụ nữ trên 60 tuổi phải sống ngoài hôn nhân, trong khi nam giới hiện tượng này chỉ xảy ra ở độ tuổi trên 85.
Bên cạnh xu hướng biến đổi của cơ cấu hôn nhân thì tình trạng tảo hôn hay kết hôn sớm vẫn khá phổ biến ở Việt Nam. Dựa trên Luật hôn nhân và gia đình có thể coi kết hôn sớm hay tảo hôn là nam kết hôn trước 20 tuổi và nữ trước 18 tuổi. Xét theo vùng thì các tỉnh phía Tây Bắc có tỷ lệ tảo hôn cao hơn hẳn các vùng khác, một số tỉnh ở Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long cũng có tỷ lệ kết hôn trong nhóm tuổi từ 15-19 khá cao (trên 10%). Một số tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao nhất cả nước cũng nằm trong những vùng này như là Lai Châu, có khoảng gần 1/5 dân số nam và 1/3 dân số nữ 15 – 19 tuổi đã từng kết hôn, tỉnh Điện Biên lần lượt là 14,4%, 27,6% và 17,5%. Cả nước có 9 tỉnh có trên 5% dân số nam 15-19 tuổi và 14 tỉnh có trên 5% dân số nữ 15-17 tuổi đã từng kết hôn. Tình trạng kết hôn của riêng nữ cũng tương tự, 23/63 tỉnh có trên 10% dân số nữ 15-19 tuổi đang hoặc đã từng có chồng

Bảng 6. Một số tỉnh có tỷ lệ kết hôn dưới 20 tuổi và dưới 18 tuổi cao

nhất cả nước năm 2009

TT

Tỉnh/thành phố

Nam 15-19

Nữ 15-19

Nữ 15-17



Cả nước

2,19

8,51

3,12
1
Hà Giang
17,25
25,52
14,31
2
Cao Bằng
10,70
16,73
8,64
3
Bắc Cạn
5,49
13,08
5,86
4
Lào Cai
11,37
23,16
11,83
5
Điện Biên
14,40
27,60
17,53
6
Lai Châu
18,65
33,83
21,20
7
Sơn La
14,03
29,08
17,14
8
Yên Bái
5,16
16,11
6,15
9
Kon Tum
4,69
15,75
7,85
10
Gia Lai
5,46
17,26
7,83























2. Một số lý do kết hôn sớm/tảo hôn
Phân tích số liệu từ Tổng điều tra năm 2009 có thể lý giải một số nguyên nhân cho vấn đề tảo hôn như sau:
So với Trung du và miền núi phía Bắc thì người 15-19 tuổi ở 5 vùng còn lại nhất là Đồng bằng Sông Hồng, Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung có xác xuất đã từng kết hôn thấp hơn, tuy nhiên phụ nữ ở tuổi này lại không có sự khác biệt giữa sống ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc với ở Tây Nguyên hay ở Đồng bằng sông Hồng. Tình trạng nhập cư tương ứng với xác suất đã kết hôn cao hơn cho nhóm nữ (phụ nữ trẻ đã di cư vì kết hôn), nhưng lại không có ý nghĩa thống kê đối với nam. Người dân tộc thiểu số có khả năng tảo hôn hay kết hôn sớm cao hơn người Kinh và sự tác động của yếu tố văn hóa dân tộc đến nam giới cao hơn nữ giới.
Yếu tố khác tác động đến việc kết hôn sớm là trình độ học vấn, nhất là đối với nữ, học vấn càng cao thì xác suất kết hôn sớm càng thấp và ngược lại, với nam giới thì yếu tố này chưa có cơ sở tin cậy
Không có việc làm cũng là yếu tố góp phần làm tỷ lệ kết hôn sớm tăng, người có việc làm thì khả năng kết hôn sớm cao hơn người không làm việc, khác biệt này ở nam giới lớn hơn nữ giới. Đối với đồng bào dân tộc miền núi thì kết hôn sớm do nhu cầu về lao động là động cơ quan trọng. Kết quả điều tra “Một số đặc điểm về hôn nhân và gia đình của dân tộc H’Mông và Dao tại Lai Châu và Cao Bằng “ do Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thực hiện năm 2004 cho thấy lý do này chiếm tới 54%, báo cáo chỉ ra rằng “nguyên nhân hàng đầu của hiện tưởng tảo hôn và trong các trường hợp kết hôn sớm tuổi cô dâu bao giờ cũng lớn tuổi của chú rể. Điều này phản ánh rõ đặc trưng về động cơ cần thêm lao động ở gia đình nhà trai và xuất phát từ thực tế đời sống còn nhiều khó khăn của bà con các dân tộc thiểu số”
Như vậy có thể thấy, việc kết hôn sớm có liên quan đến các yếu tố về bỏ học sớm, đi làm sớm, nhóm dân tộc ít người và những yếu tố này rơi vào nữ nhiều hơn.

3. Các gợi ý và khuyến nghị
-                     Việc kết hôn sớm sẽ làm mất đi cơ hội về học vấn, việc làm tốt, cơ hội cải thiện điều kiện sống và sức khỏe của người trẻ tuổi, vì vậy việc chống tảo hôn, kết hôn sớm là cần thiết. Đối tượng cần tập trung bảo vệ là phụ nữ nông thôn ở Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long, cả nam và nữ ở nông thôn vùng núi phía Bắc, đặc biệt là người dân tộc ít người, trình độ học vấn thấp
-                     Nhà nước cần tiếp tục thực hiện chính sách tuyên truyền vận động và áp dụng những biện pháp pháp lý hiệu quả hơn nhằm giảm bớt tình trạng tảo hôn và kết hôn sớm, ưu tiên những vùng có tỷ lệ tảo hôn cao.
-                     Vùng đồng bào các dân tộc ít người cần tiếp tục được đầu tư hơn nữa về giáo dục nhằm nâng cao dân trí, biến đổi nhận thức để đồng bào, đặc biệt là thế hệ trẻ có nhiều hơn sự lựa chọn trong vấn đề hôn nhân một cách đúng đắn, khắc phục những hạn chế về bởi yếu tố phong tục của dân tộc mình.
-                     Do đối tượng tảo hôn tập trung chủ yếu ở những vùng có kinh tế khó khăn và đồng bào dân tộc ít người sinh sống nên chính sách xóa đói, giảm nghèo nâng cao đời sống cho những vùng này là rất cần thiết.

-                     Cần có các nghiên cứu phân tích sâu yếu tố dẫn đến tình trạng tảo hôn/kết hôn sớm, đưa ra các giải pháp để bảo vệ, phát triển trẻ em gái  ở các vùng nghèo và ở nhóm dân tộc ít người.

Bảng 1. Tỷ lệ kết hôn dưới 20 và dưới 18 của các tỉnh/ thành phố, Việt Nam, 2009

Tỉnh/thànhphố

Nam         15-19

Nữ           15-19

Nữ        15-17

Tỉnh/thànhphố

Nam         15-19

Nữ           15-19

Nữ        15-17
Hà Nội
0,65
4,83
1,20
Quảng Nam
1,33
4,37
1,74
Hà Giang
17,25
25,52
14,31
Quảng Ngãi
1,50
5,80
2,25
Cao Bằng
10,70
16,73
8,64
Bình Định
0,60
5,13
1,26
Bắc Kạn
5,49
13,08
5,86
Phú Yên
1,18
7,07
2,27
Tuyên Quang
3,28
14,08
5,07
Khánh Hoà
1,14
6,06
2,12
Lào Cai
11,37
23,16
11,83
Ninh Thuận
1,74
8,71
3,56
Điện Biên
14,40
27,60
17,53
Bình Thuận
1,30
7,88
2,57
Lai Châu
18,65
33,83
21,20
Kon Tum
4,69
15,75
7,85
Sơn La
14,03
29,08
17,14
Gia Lai
5,46
17,26
7,83
Yên Bái
5,16
16,11
6,15
Đắc Lắc
2,32
9,02
3,53
Hoà Bình
1,83
10,61
2,98
Đắc Nông
3,38
14,07
5,25
Thái Nguyên
0,85
8,53
2,47
Lâm Đồng
1,86
9,36
3,31
Lạng Sơn
3,47
9,58
3,08
Bình Phước
2,29
12,47
4,69
Quảng Ninh
1,17
7,29
1,55
Tây Ninh
2,63
12,92
5,23
Bắc Giang
0,97
8,49
1,72
Bình Dương
2,53
8,90
3,50
Phú Thọ
0,74
7,15
1,60
Đồng Nai
1,22
5,23
1,66
Vĩnh Phúc
0,69
9,11
2,00
Bà Rịa- Vũng Tàu
1,06
5,92
1,96
Bắc Ninh
0,71
7,57
1,25
TPHCM
1,38
5,29
1,96
Hải Dương
0,61
6,00
1,06
Long An
2,18
10,38
3,69
Hải Phòng
0,87
6,02
1,52
Tiền Giang
1,94
9,68
2,52
Hưng Yên
0,97
6,32
1,44
Bến Tre
1,38
8,70
2,40
Thái Bình
0,37
5,04
1,06
Trà Vinh
2,19
10,54
4,29
Hà Nam
0,75
5,40
0,95
Vĩnh Long
1,43
8,03
2,56
Nam Định
0,44
7,58
1,30
Đồng Tháp
2,41
11,04
3,77
Ninh Bình
0,33
4,96
0,76
An Giang
3,40
13,85
5,56
Thanh Hoá
1,15
5,61
1,62
Kiên Giang
2,46
11,12
4,36
Nghệ An
1,50
5,40
2,09
Cần Thơ
2,19
9,85
3,69
Hà Tĩnh
0,21
2,51
0,43
Hậu Giang
2,54
12,42
4,27
Quảng Bình
0,65
4,13
1,25
Sóc Trăng
2,37
10,09
3,76
Quảng Trị
1,37
5,46
1,80
Bạc Liêu
1,70
8,85
2,60
Thừa Thiên Huế
0,67
3,09
1,04
Cà Mau
2,83
11,46
4,03
Đà Nẵng
0,39
2,57
0,86
Cả Nước
2,19
8,51
3,12

 
Bảng 2. Tỷ lệ kết hôn theo nhóm tuổi, giới tính và sáu vùng địa lý ở Việt Nam, 2009


Trung du và MN Phía Bắc

ĐB Sông Hồng

Bắc Trung Bộ và DH Miền Trung

Tây Nguyên

Đông Nam Bộ

ĐB Sông Cửu Long

Chung

Nam
15-19
6,37
0,65
1,08
3,23
1,59
2,29
2,16
20-24
39,88
19,79
18,73
32,57
18,76
26,31
24,05
25-29
76,63
65,46
58,81
70,58
54,07
63,39
63,24
30-34
92,48
89,92
86,28
89,71
79,49
84,51
86,38
35-39
95,69
95,00
93,38
94,61
86,61
90,82
92,30
40-44
96,86
97,05
95,90
95,55
89,51
93,41
94,62
45-49
97,22
97,46
96,68
96,53
91,05
94,45
95,65
50-54
96,83
97,36
96,68
96,35
91,97
94,46
95,75
55-59
95,78
96,94
96,02
95,20
92,31
93,80
95,21
60-64
93,58
95,68
94,53
93,46
90,82
92,21
93,83
65-69
90,12
93,05
91,87
89,52
87,96
88,88
90,88
70-74
84,79
88,65
87,35
85,27
82,63
83,79
86,19
75+
70,87
72,48
72,62
74,35
71,64
69,49
71,74

Nữ
15-19
15,67
5,89
5,09
11,81
6,66
10,36
8,34
20-24
64,52
48,32
45,03
60,34
34,97
51,10
48,00
25-29
87,04
83,44
80,87
85,71
68,04
78,11
79,23
30-34
91,30
90,56
89,54
91,62
81,09
86,80
87,93
35-39
91,24
90,28
89,11
90,93
82,43
87,91
88,28
40-44
89,11
88,56
86,16
87,98
80,65
86,41
86,28
45-49
85,73
85,14
82,78
84,14
77,54
83,18
83,09
50-54
80,61
81,01
78,45
78,63
71,98
78,62
78,43
55-59
73,92
75,63
72,19
70,98
63,86
71,08
71,79
60-64
64,25
67,93
63,01
60,60
56,87
60,22
63,07
65-69
56,35
59,67
54,00
51,33
47,08
50,01
53,88
70-74
46,57
50,49
45,67
41,23
38,69
41,35
45,19
75+
25,88
26,78
25,68
23,20
22,83
24,34
25,44

 
Bảng 3. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu (SMAM), 2000-2010

Năm

Nam

Nữ

Chênh lệch SMAM (Nam - Nữ)
2000
25,7
22,9
2,8
2001
25,7
22,8
2,9
2002
26
22,8
3,2
2003
26,2
23,1
3,1
2004
26,7
23,4
3,3
2005
26,8
23,5
3,3
2006
26,6
23,2
3,4
2007
26,6
23,3
3,3
2008
26,6
23,1
3,4
2009
26,2
22,8
3,4
2010
26,2
22,7
3,5
 

Bảng 4. Tỷ lệ dân số đang kết hôn theo nhóm tuổi, giới tính và khu vực TT/NT, 2009

Nhóm tuổi

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Thành thị

Nông thôn

Thành thị

Nông thôn
15-19
1,09
2,55
4,81
9,72
2,16
8,34
20-24
14,94
28,11
32,89
55,79
24,05
48
25-29
53,2
67,81
71,41
83,24
63,24
79,23
30-34
80,58
88,95
83,92
89,83
86,38
87,93
35-39
88,04
94,2
84,78
89,91
92,3
88,28
40-44
91,37
96
83,08
87,7
94,62
86,28
45-49
93,37
96,7
80,93
84,09
95,65
83,09
50-54
94,28
96,45
76,46
79,36
95,75
78,43
55-59
94,08
95,72
69,93
72,65
95,21
71,79
60-64
93,35
94,04
63,19
63,02
93,83
63,07
65-69
90,75
90,93
53,79
53,92
90,88
53,88
70-74
86,28
86,16
43,28
45,89
86,19
45,19
75+
73,3
71,19
24,02
25,9
71,74
25,44